Là một người theo đạo tôi
thường xuyên theo dõi về tình hình tự do tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.
Thời gian gần đây tôi để ý thấy một số đồng bào hải ngoại của tôi và một số
phương tiện truyền thông đại chúng nói rằng ở Việt Nam không có tự do tín
ngưỡng tôn giáo và nhà nước Việt Nam hay “đàn áp tôn giáo”? Khi nghe những
thông tin này tôi rất bất bình với Nhà nước Việt Nam
vì tự do tín ngưỡng tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người.,
chẳng lẽ nhà nước Việt Nam
lai mất nhân quyền đến thế? Và tôi đã cất công tìm hiểu các quy định của luật
pháp Việt Nam
về vấn đề này cũng như thực tiễn ở Việt nam.
Và tôi hơi bất ngờ khi
thấy rằng không đúng như những gì tôi được nghe. Hoá ra Nhà nước
Việt Nam
luôn tôn trọng và đảm bảo các quyền con người nói chung và quyền tự do tín
ngưỡng tôn giáo nói riêng. Điều này đã được thể hiện không chỉ là trong các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà còn luôn được Nhà nước Việt
Nam đảm bảo thực hiện trong thực tiễn.
Về
phương diện pháp lý, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo đã được chủ tịch Hồ Chí
Minh nhắc đến ngay từ những văn kiện cách mạng đầu tiên và được ghi nhận trong
rất nhiều các văn bản pháp luật khác. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu
tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định rõ: “Công dân Việt Nam
có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín
ngưỡng…” (Điều
10). Như vậy nếu so sánh với các quy định của pháp luật quốc tế như Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (1966) thì rõ ràng vấn đề tự do tín ngưỡng tôn giáo đã được nhà nước Việt
Nam ghi nhận từ rất sớm.
Kế
thừa và phát triển tinh thần của Hiến pháp 1946 về quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo, những bản Hiến pháp sau này như Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp
1992 đều có những điều khoản hết sức cụ thể quy định về vấn đề này. Điều 70
Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước
pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”.
Không chỉ được thể hiện
trong Hiến pháp, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo còn được cụ thể hóa trong
nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà nước Việt Nam như Luật tổ chức chính phủ,
Nghị định 26/1999/NĐ-CP, Thông tư số 1 và số 122 (1999) hướng dẫn hoạt động tôn
giáo, Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo (2004)… Điển hình như tại Nghị định
26/1999/NĐ-CP, Chính phủ Việt Nam quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo…” (Điều 1), “Công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật, được hưởng mọi quyền công dân và có trách nhiệm
thực hiện mọi nghĩa vụ công dân” (Điều 2), “Mọi công dân có quyền tự do theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo ” (Điều 3)…
Đồng
thời với việc khẳng định trên phương diện pháp lý, quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo được Nhà nước Việt Nam
luôn luôn bảo đảm thực hiện trong thực tiễn. Điều này được thể hiện qua việc
chính quyền luôn chăm lo giải quyết các nhu cầu tôn giáo chính đáng của quần
chúng. Ngoài các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân (Phật
giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Cao đài, Hòa hảo…), nhà
nước Việt Nam đã xét và công nhận hàng chục tổ chức, hệ phái các tôn giáo hiện
đang tồn tại và hoạt động theo chính sách, pháp luật như Tịnh độ cư sĩ Phật
hội, Baha’i, Bửu Sơn Kỳ Hương..... Hoạt động của các tôn giáo luôn được chính
quyền quan tâm nhất là việc in ấn, xuất bản kinh sách, đào tạo, xây sửa cơ sở
thờ tự… đảm bảo
cho sinh hoạt tôn giáo bình thường của quần chúng giáo dân. Chỉ tính trong vòng
5 năm (199-2004), thông qua Nhà xuất bản Tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và tín
đồ đã xuất bản được 719 ấn phẩm Tôn giáo với 4200000 bản in, trong đó riêng
Kinh thánh là hơn 500000 bản. Năm 2007, nhà xuất bản Tôn giáo đã ấn hành 620
đầu sách của các tổ chức tôn giáo với 1,2 triệu bản in và 180 xuất bản phẩm tôn
giáo với 97500 bản. Chỉ tính riêng năm 2008 đã có 915 đầu sách[1]. Việc mở
trường và đào tạo chức sắc tôn giáo luôn được Nhà nước hỗ trợ và ủng hộ. Nhiều
sinh hoạt tôn giáo, nhiều ngày lễ lớn hàng năm của các tôn giáo như lễ Nô-en
của Thiên chúa giáo, lễ Phật đản của Phật giáo… đều được
chính quyền tạo điều kiện tổ chức với sự tham gia của hàng nghìn, hàng vạn quần
chúng tín đồ. Điển hình như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2008 được tổ chức
trọng thể tại Hà Nội với sự tham gia của hơn 4000 tăng ni, phật tử trong đó có khoảng 2000 chức sắc, tín đồ đến
từ các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đảng, Nhà nước Việt Nam còn tổ
chức triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo
an ninh quốc phòng tại các vùng có đông đồng bào các tôn giáo, nâng cao đời
sống vật chất cũng như đời sống tinh thần cho đồng bào có đạo.
Có
đi sâu tìm hiểu tôi mới thấy những luận điệu Việt Nam vi phạm tự do tín ngưỡng
tôn giáo, Nhà nước Việt Nam đàn áp tôn giáo… chỉ là
những đánh giá chủ quan, phiến diện của một số tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước. Phải chăng xuất phát từ sự thiếu thiện chí với Việt nam hay vì một lý do
sâu xa nào khác mà họ đã cố tình không nhận thức được thực tiễn tình hình tự do
tín ngưỡng tôn giáo tại Việt Nam.
Tuy nhiên dù với lý do nào đi chăng nữa thì họ cũng không thể phủ nhận được
những thành tựu hết sức to lớn của Việt Nam trong việc đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng tôn giáo. Nếu họ vẫn tiếp tục
xuyên tạc về tình hình tự do tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam, e rằng họ
sẽ là những người lạc điệu và bị đông đảo tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam cũng
như nhân dân tiến bộ trên thế giới lên án.
Người viễn xứ
Có hay không thì hãy hỏi người dân, chứ không phải hỏi mấy tên đi khóc thuê thế này
Trả lờiXóaĐiều 18: Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm quyền tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín, dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo. Không một ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
Trả lờiXóaCông dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.Hiến pháp Việt Nam chỉ rõ điều đó và đã thực hiện rất tốt điều này
Trả lờiXóaViệt Nam luôn coi trọng và bảo vệ các quyền dân chủ. và trong số các quyền dân chủ ấy co quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo. việc nói Việt Nam đàn áp tôn giáo là nói bịa đặt
Trả lờiXóaViệt Nam luôn tôn trọng và còn coi tự do tín ngưỡng tôn giáo là một trong những chính sách thì đương nhiên là có tự do tín ngưỡng tôn giáo rồi.
Trả lờiXóaNhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và đảm bảo các quyền con người nói chung và quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo nói riêng. Điều này đã được thể hiện không chỉ là trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà còn luôn được Nhà nước Việt Nam đảm bảo thực hiện trong thực tiễn.
Trả lờiXóaViệt Nam là quốc gia tôn trọng quyền con người và sự phát triển của các dân tộc. Tự do tín ngưỡng là quyền của tất cả người dân Việt Nam. Việt nam không bao giờ cấm đoán ai phải theo bất kì tôn giáo nào cả.
Trả lờiXóaỞ việt Nam Phật giáo và Thiên chúa giáo có nhiều tín đồ đông đảo.Đặc biệt là Phật giáo
Trả lờiXóaRất đông người dân không theo tôn giáo nào nhưng vào ngày lê tết,rằm,mùng một đều lên chùa cầu an!
Trả lờiXóaCông dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng
Trả lờiXóacông dân việt được được tự do tôn giáo đó thôi. điều đó ai cũng nhận thức được
Trả lờiXóa