..........................MR HADES...............
VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH,
CHỦ TỊCH CAY XỎN PHÔMVIHẢN, CHỦ TỊCH XUPHANUVÔNG VÀ CÁC NHÀ
LÃNH ĐẠO CẤP CAO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN
QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM
– LÀO, LÀO - VIỆT NAM.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ
xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một
điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung,
trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh
xây dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam:
Chủ
tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào –
Việt Nam.
Trong những thập kỷ đầu
thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc, với lòng yêu nước nồng nàn và nghị lực phi
thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới tư bản
chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp
nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông
Dương để xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường
cách mạng vô sản.
Trong
quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm đến tình
hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung mà còn tố cáo
cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào (1). Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc
trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng
2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận
lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh
cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào,
Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt
kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ
nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương.
Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào (2) càng
cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.
Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại
Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam
được tổ chức.
Như
vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên
trên hành trình trở về Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những
cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về
phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước Đông Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc
đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước
ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Ngày
3 -2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lapạ đã ra đời - tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng
là sự mở đầu những trang sử vẻ vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam.
Trên
cơ sở sự phát triển của tổ chức Đảng ở Lào, tháng 9 năm 1934, Ban Chấp hành
Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành lập. Sự
ra đời của Xứ uỷ Ai Lao là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đấu tranh yêu
nước của nhân dân các bộ tộc Lào, khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ Lào đối với cách mạng Lào cũng như đánh dấu một bước phát triển mới
trong quan hệ giữa phong trào cách mạng hai nước Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam.
Trong
suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương còn đề
ra những chủ trương và giải pháp cụ thể chỉ đạo các cấp bộ Đảng và phong trào
cách mạng Đông Dương cũng như tăng cường sự quan hệ mật thiết, nương dựa lẫn
nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào trên hành trình đấu tranh giành tự do, độc
lập cho mỗi dân tộc. Điều này thêm một
lần nữa khẳng định: quá trình chuẩn bị công phu về mọi mặt chính trị, tư tưởng,
và tổ chức cho cách mạng Việt Nam, đồng thời với việc quan tâm xây dựng nhân tố
bên trong cho cách mạng Lào, cả về phương diện tổ chức lẫn chỉ đạo thực tiễn
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thật sự tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất cho
lớp người cộng sản Đông Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người
Lào, hay là người Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ đặc
biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình
đoàn kết đặc biệt đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Ngay
sau khi nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Hoàng thân Xuphanuvông đang ở
Vinh ra Hà Nội và tiếp Hoàng thân. Cuộc gặp gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết
định đối với Hoàng thân trong việc chọn lựa con đường làm cách mạng. Ngày
3-10-1945, tại cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân tỉnh Savẳnnakhệt đón chào
Hoàng thân Xuphanuvông trở về tham gia chính phủ Lào, Hoàng thân tuyên bố: “Quan
hệ Lào - Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới...”. Hình ảnh, uy tín, quyết tâm làm cách mạng, cứu
nước và những lời nói tốt đẹp của Hoàng thân về quan hệ Lào - Việt đã tác động
lớn lao đến sự hưởng ứng, tham gia cách mạng của các tầng lớp nhân dân Lào,
càng tạo thêm chất keo gắn kết tình cảm của nhân dân Lào với Việt kiều cũng như
với Việt Nam. Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) vừa được thành lập cũng đã chủ
trương: “Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân Việt Nam và quyết tâm cùng nhân dân Việt Nam
đánh đuổi bọn thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương” (3). Thủ tướng Khăm Mạo tuyên bố với Việt kiều: “mong
rằng ba nước Việt, Miên, Lào bắt tay nhau để kiến thiết quốc gia” (4).
Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ Lào – Việt (4) và Hiệp định về tổ chức Liên quân
Lào - Việt (5), đặt cơ sở pháp lý đầu
tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai
dân tộc Việt - Lào.
Sau
khi giành được chính quyền, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào hơn lúc nào hết,
chỉ mong muốn được sống trong hòa bình, tiếp tục hợp tác, cùng nhau bảo vệ nền
độc lập và xây dựng lại đất nước nhưng ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp
được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn. Tiếp đó,
chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ của Việt Nam, sang
Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.
Trước
nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào - Campuchia,
ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc của ba nước
Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt- Miên- Lào
chống Pháp xâm lược” và nêu rõ nhiệm vụ: “Tăng cường công tác vũ trang tuyên
truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn quê, làm cho mặt trận kháng Pháp của
Lào – Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao vây lại
quân Pháp ở nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào” (6).
Đảng
và Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi nhiệm vụ giúp
cách mạng Lào như mình tự giúp mình để cùng phối hợp chiến đấu, đánh đuổi kẻ
thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Thấm nhuần
quan điểm quốc tế cao cả của Đảng Lao động Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân Việt Nam từ tiền tuyến đến hậu phương sẵn sàng chia sẻ những
thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều người con yêu dấu của mình sang
phối hợp cùng bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát triển lực lượng kháng
chiến.
Nhân dịp giành được
thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia,
thành lập Chính phủ Liên hiệp, ngày 10 tháng 1 năm 1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sở dĩ cách mạng
Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh
dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng
Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng tôi trong mỗi
giai đoạn của cách mạng”.(7)
Những
thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách mạng Lào,
đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân
và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành nhất mực,
sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí Cay xỏn
Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động
Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào
hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam
đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ
khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối
với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng
đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”(8).
Thấm
nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là mình tự giúp mình”, coi nhân dân bạn như nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của
bạn là trách nhiệm của mình, trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, các thế
hệ cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam làm nhiệm
vụ quốc tế ở Lào luôn kề vai sát cánh và cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch
càn quét lấn chiếm, vừa tiến hành xây dựng và củng cố các đoàn thể, chính quyền
kháng chiến, xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, tăng cường lực lượng vũ trang,
phát triển chiến tranh du kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và Hạ Lào.
Đồng thời, thực tiễn chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng là cơ
hội bồi dưỡng, rèn luyện rất bổ ích về các mặt quân sự, chính trị, nhất là nâng
cao thêm tinh thần đoàn kết quốc tế cho cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và
đội ngũ chuyên gia Việt Nam.
Sau
năm 1975, quan hệ Việt Nam
và Lào bước sang trang mới: từ liên minh chiến đấu chung một chiến hào sang hợp
tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học
công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy nhanh xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó, các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam và Lào đều có cơ hội và điều kiện thu hút vốn đầu tư, kinh
nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ của thế giới để đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước…
Năm
1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào và Việt Nam đã
đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ quân đội và
chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định biên giới quốc
gia giữa hai nước. Tuy nhiên, lợi dụng cơ hội này, bọn phản động trong nước
Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động nổi dậy ở
nhiều nơi. Do vận mệnh của hai nước liên đới lẫn nhau nên mối quan tâm hàng đầu
về an ninh chính trị của Lào cũng là mối quan tâm thường trực của Việt Nam.
Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra
Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai
đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào
là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam,
cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.
Đặc
biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và
Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu
sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề
quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát
triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước,
trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc
trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18
tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung
tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.
Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào là
Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo cơ sở chính trị và pháp
lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đoàn kết, mối quan hệ đặc
biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hiệp ước có giá trị trong 25 năm và sẽ
được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu một trong hai bên không thông báo
cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước ít nhất là một năm trước khi hết hạn. Hiệp ước
nêu rõ: Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam, không ngừng tăng cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn
nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ
nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của
nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây là mốc lịch sử
quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết
hiệp ước đó còn có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong
sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy
ảnh hưởng tích cực trong khu vực.
Hiệp
ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải quyết vấn đề lợi ích
dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, là mẫu mực về chính sách láng giềng hữu
nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào.
Từ khi hai
nước tiến hành đổi mới vào năm 1986,lãnh đạo cấp cao hai Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Ngày 3-7-1987,
Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị: “Trên cơ sở quán triệt
đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các Nghị quyết 10 và
11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện với Lào và
Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này[1][11],
các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm
điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng
tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho
quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”[2][12]. Về phía Lào, Ban Bí thư
Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền
thống lịch sử và tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng
cường liên minh hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới trở
thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của
mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”[3][13]. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng Nhân dân cách
mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán triệt quan
điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách mạng mới, uốn
nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ quan, chống
mọi hiện tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư tưởng dân tộc
hẹp hòi”[4][14].
Theo
tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị đã trở thành một cơ chế
hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Trong đó có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển
mới trong quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là chuyến
thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt Nam từ sau
Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với nhau nhiều vấn đề
quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai nước và giải quyết
các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của quan hệ hợp tác chính
trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai
nước vẫn kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ
nghĩa.
Tháng 10 năm 1991, đồng chí
Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp
cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định
quyết tâm trước sau như một tăng cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết
đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam – Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao
đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt
động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.
Từ
đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh
sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương,
nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều có những trao đổi hợp tác và mối quan
hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam từ 1930 – 2007
nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp
tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên
một tầm cao mới.
Tháng
6 năm 2011, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã thăm hữu nghị
chính thức CHDCND Lào, tiếp tục khẳng định mong muốn và quyết tâm của Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam trong việc gìn giữ, phát huy quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào như một tài sản chung vô giá của hai dân tộc. Cũng trong năm 2011,
hai bên đã trao đổi nhiều đoàn lãnh đạo Quốc hội và đại biểu Quốc hội của hai
nước, phối hợp tổ chức thành công nhiều hoạt động giao lưu giữa các cơ quan của
hai Quốc hội như: Hội thảo giao lưu giữa Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam -
Lào tại Hội An (Việt Nam) vào tháng 6/2011; Hội thảo giữa ba Ủy ban Đối ngoại
Quốc hội Việt Nam - Lào - Campuchia tại Chămpaxắc (Lào) vào tháng 7/2011; Hội
thảo giao lưu giữa Văn phòng Quốc hội Việt Nam - Lào tại Savẳnnakhệt (Lào) vào
tháng 7/2011; Hội thảo giữa hai Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu
niên và Nhi đồng của hai Quốc hội tháng 2/2011 tại Lào, qua đó tăng cường hiểu
biết, tin cậy và quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Quốc hội nói riêng, hai
Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào nói chung.
Tháng
8/2011,Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chummaly xaynhasỏn dẫn đầu Ðoàn đại biểu
cấp cao Lào sang thăm Việt Nam tiếp tục góp phần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ
truyền thống, hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện
giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt Nam phát triển lên
tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước Lào - Việt Nam, vì hòa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam
-Lào, Lào -Việt Nam
quý báu và thiêng liêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu
thơ bất hủ:
"Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt - Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu
Long".
Chủ
tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định:
"Trong lịch sử cách mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng
về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn
kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt
Nam"; "Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt
Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông".
Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa
tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh Savẳnakhệt, Xalavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào cũng không ngoài truyền thống quý báu đó.
Phát huy truyền thống trong chiến
đấu, ngày nay trong sự nghiệp xây dựng đất nước với lợi thế Quảng Trị có chung
206 km đường biên giới, chính quyền 3 tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt
và Xalavăn thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo quảng bá đầu tư, cải
cách thủ tục hành chính tại Cửa Khẩu Quốc tế Lao Bảo, Đensavẳn và Cửa khẩu Quốc
gia La Lay nhằm khuyến khích giao lưu phát triển kinh tế, thương mại, du lịch
và tạo điều kiện bà con 2 bên biên giới qua lại thăm thân, trao đổi hàng hoá,
tham quan, du lịch... Quan hệ buôn bán giữa các doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào từng bước được xác lập và
bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du
lịch của 3 tỉnh Quảng Trị - Việt Nam, Savannakhẹt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan
đã có các chương trình hợp tác đưa đón khách tham quan du lịch theo tour "
Một ngày ăn cơm 3 nước" ngày càng thu hút nhiều khác trong và ngoài nước.
Các Sở,
Ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, các lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội
biên phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh Savẳnnakhệt, tỉnh Xalavăn định kỳ
có các cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Công an, Biên phòng
các huyện biên giới cũng thường xuyên phối hợp với nhau trong công tác nắm tình
hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn trọng điểm để hoàn chỉnh
kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhờ vậy, đường biên, cột mốc giữa các
tỉnh luôn được bảo vệ nguyên trạng; tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn được giữ vững. Vừa qua, tại Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo -
Đensavẳn, tỉnh Quảng Trị là tỉnh đầu tiên trong 13 tỉnh, thành phố có chung
đường biên giới với nước bạn Lào được triển khai xây dựng thí điểm và tỉnh
Savănnakhệt (Lào) khởi công xây dựng cột mốc Quốc giới Việt Nam - Lào đoạn qua
tỉnh Quảng Trị và Savănnakhet (mốc 605-1 và 605-2). Đây là cặp mốc đầu
tiên được khởi công xây dựng nằm trong dự án tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc
Quốc giới Việt – Lào.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang
thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại,
chia rẽ tình đòan kết hữu nghị đặc biệt Việt- Lào và công cuộc xây dựng CNXH ở
mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết
tâm tăng cường quan hệ hữu nghị hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng
giềng gắn bó keo sơn này.
Việt-Lào hai nước chúng ta
Trả lờiXóaTình sâu như nước Hồng Hà-Cửu Long
mong rằng tình cảm anh em của hai nước chúng ta ngày càng được thắt chặt hơn.
Trả lờiXóaAwesome post. hotmail login
Keep up the work, great job! The Turkish government has introduced an online visa system that allows US citizens to obtain a visit visa electronically. Turkey visa for US citizens , US citizens can now easily apply for Turkey Visa from their home or office.
Trả lờiXóaI am browsing this website daily and get good facts from here all the time. Aw, this was a really nice post. kenya single entry visa, Obtaining a single entry visa kenya is quite convenient for individuals who wish to travel to the country for tourism or business purposes.
Trả lờiXóaThis is a very useful article. Indian e visa application, you can fill your Indian e Visa application form online in 5 to 10 minutes through Indian Visa website.
Trả lờiXóaYou can travel in India and see the beauty of this country, Delhi is a union territory within India, as well as a city, and it consists of two different worlds: New Delhi and Old Delhi. and travel in Delhi Indian City Tour, Famous 15 tourist places in Delhi, you can read about ideas related to this place through Indian Evisa website can read.
Trả lờiXóaHii everyone, Do you know how to fill Turkey e visa application form. You can get this info on our Turkey visa website.We provide Turkey visa related information. You can check my website.
Trả lờiXóa